Kính gửi : Ban soạn thảo sửa đổi hiến pháp Quốc hội Việt nam
Tôi là Hoàng Đức Doanh sinh năm 1946 giới tính : Nam
Trú tại : Tổ 7 phường Hai Bà Trưng thành phố Phủ lý tỉnh Hà nam
Lai lịch bản thân : Từ nhỏ đến 19 tuổi đi học, lao động tự do. Năm 20
tuổi (1/1966) đi bộ đội, chiến đấu ở Khe sanh (Quảng trị) 1968 – 1969.
Năm 1970 – 1972 chiến đấu ở Xiêng khoảng, Sầm nưa (Lào). Năm 1973 chuyển
ngành là cán bộ huyện Thanh liêm - Hà nam đến khi nghỉ hưu. Chưa có
tiền án , tiền sự. là người ngoài đảng và chưa bao giờ có biểu hiện
chống đối đảng (tính đến khi viết góp ý).
Thái độ góp ý :
Thật tâm, chân thành với mục đích xây dựng .
Không nói những điều biết là chưa đúng, Không sử dụng giả dối để biện
luận, dẫn chứng.
Bổn phận công dân : Là công dân lương thiện, cao tuổi nên không để ai
lợi dụng .Không sợ "chụp mũ" khi nói sự thật , luận bàn về tương lai
phải dựa vào tính logic của sự việc, được phép sử dụng kinh nghiệm của
nhân loại để viện dẫn. Xây dựng Hiến pháp là trách nhiệm, là thể hiện
yêu nước.
Nội dung góp ý:
Hiến pháp Việt nam ra đời năm 1946, đã trải qua 4 lần sửa: 1958, 1980,
1992, 2001, nay là lần thứ 5. Tự điều này nói lên (do hoàn cảnh) chúng
ta xây dựng hiến pháp thiếu tầm nhìn, biểu hiện sự chắp vá. Lần sửa 1992
sinh thêm nội dung được ghi gọn vào điều 4 và đến nay vẫn duy trì. Điều
này gây nên tranh luận sôi nổi nhất. Nếu giữ điều 4 thì xem như các
điều khác ít phải bàn, nếu bỏ điều 4 thì hầu như phải viết lại. Hiện
tượng đó nói lên tầm quan trọng của điều 4, nó quan trọng tới mức trước
đây bị cấm kỵ , chỉ từ khi ông Phan trung Lý tuyên bố không có vùng cấm
thì nhiều người mới lên tiếng .Nội dung điều 4 mặc định đảng Cộng sản
lãnh đạo nhân dân Việt nam mãi mãi ( điều 4 không xác định thời gian,
được hiểu là vĩnh viễn) nên cần phải bàn thảo kỹ lưỡng.
Nếu ai đồng ý điều 4 là mang quan niệm duy tâm, theo thuyết duy vật thì
không có cái gì bất biến, ngay đến một dân tộc cũng vận động, hoặc theo
chiều hướng văn minh, hoặc lạc hậu và ai cũng thừa nhận dân tộc là
trường tồn. Các đảng phái chính trị luôn thay đổi cho nên giới hạn, chưa
có đảng chính trị nào tồn tại vài trăm năm và nếu là cầm quyền thì chưa
thể đến trăm năm. Cứ cho là đảng Cộng sản Việt nam muôn năm thì vẫn là
giới hạn không thể sánh với dân tộc trường tồn. Luận điểm này phi
lôgic, đảng chỉ là một bộ phận của dân tộc. Tiểu tiết không thể bao phủ
đại thể.
Vừa qua các ý kiến bảo vệ điều 4 lý luận rằng : vì công lao của đảng, vì
tài tình của đảng nên đảng xứng đáng giữ vai trò lãnh đạo. Khi các vị
nói đến công lao, các vị có nghĩ đến tội của đảng không? Giai đoạn 1930 –
1945 chưa thấy ai quy kết đảng mắc tội (hoặc có mà chưa công khai).
Giai đoạn 1945 tới nay thì chính đảng – Những người lãnh đạo, văn kiện
của đảng -- đã thừa nhận những khuyết điểm của đảng. Có việc đúng nghĩa
với cụm từ khuyết điểm, có những việc phải nói là tội lỗi. Khá nhiều
người chết oan trong cải cách ruộng đất do đảng gây nên phải gọi là tội
ác. Các lần chỉnh đảng, thanh trừng nội bộ, thanh trừng những người bất
đồng chính kiến phải gọi là tội .v.v.
Những tội nêu trên vẫn còn là nhỏ, tôi thiết nghĩ tội lớn nhất của đảng
là tội đã hơn nửa thế kỷ nay đưa dân tộc Việt nam vào vị thế bất lợi. Đã
có lúc chúng ta tự hào Việt nam là tiền đồn của phe XHCN, là người lính
tiên phong của 3 dòng thác cách mạng. Nay xem còn mấy người tự hào về
điều này và các phương tiện truyền thông cũng không thấy nói đến bởi vì
sự thật phũ phàng của Việt nam đã được bạch hóa. Việt nam bị làm con tin
của hai phe Cộng sản đối kháng với Tư bản từ hội nghị Giơ-ne-vơ 1954 ,
quá trình cho đến nay Việt nam đã nhiều lần bị các nước lớn mang ra "đấu
giá" cho nên chúng ta bị quay cuồng chống đỡ, nhân dân gánh chịu nhiều
đau thương, mất mát và nay đang tụt hậu cũng bắt nguồn từ nguyên nhân
này. Chúng ta cứ nhầm tưởng chúng ta làm được những điều vĩ đại, rốt
cụôc chúng ta đều nằm trong kịch bản của 2 phe đối kháng tạo dựng. Ngày
nay khi chúng ta đã hòa nhập với thế giới, nhiều điều trước kia là bí
mật quốc gia thì nay đã được công khai, một số vị nguyên là cán bộ cao
cấp viết hồi ký giúp cho công luận nhìn rõ quá trình đường đi nước bước
của dân tộc sau gần thế kỷ.
Tôi đồng ý với các vị, đảng có nhiều công lao, (trừ những điều mà người
ta tâng bốc). Lớp đảng viên tiền bối có nhiều người xứng đáng là anh
hùng của dân tộc, họ đã kế thừa truyền thống yêu nước, bất khuất của ông
cha, họ đã không nề hà gian khổ, không tiếc máu xương, nếu so sánh khí
phách anh hùng họ không thua kém bất kể thời đại nào trước đó, nhân dân
ta đời đời biết ơn họ. Nhưng tiếc rằng những lớp đảng viên kế tiếp chưa
đủ thông minh dẫn dắt dân Việt nam được hưởng thành quả của lớp người đi
trước, chưa xứng đáng với sự hy sinh cao cả thuộc thế hệ tiên phong.
Điều hành đất nước hiện nay, tôi không nhìn thấy công lao, rất bình
thường, có mặt còn chưa đạt mức bình thường nếu đem so sánh với những
nhà nước quanh khu vực. Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo có nhiều công lao
nhưng không thể con, cháu dòng họ Trần cứ lợi dụng mà kể công với dân
tộc. Cho nên lập luận đảng có công lao nên đảng xứng đáng giữ vai trò
lãnh đạo mãi mãi là không thuyết phục. Chúng ta đã phá bỏ tập tục
cha truyền, con nối lẽ nào chúng ta chấp nhận sự thừa hưởng, vin vào
công lao để thừa hưởng! Mỗi chúng ta còn chấp nhận điều này thì không
bao giờ chúng ta tìm thấy người tài!
Tiếp đến còn những ý kiến mang triết lý sổ hưu để bảo vệ điều 4 có lập
luận rằng: Bỏ điều 4 thì sổ hưu không còn, những người đang làm việc rồi
đây, đến khi hết tuổi lao động sẽ không có lương hưu. Lẽ ra tôi không
nên làm mất thời gian của nhiều người về điểm này vì ai cũng dễ dàng
nhìn thấy sự vô lý, tôi xin quý vị nhìn sang Liên xô và các nước đông
Âu, từ ngày họ không dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản họ có bị mất
lương hưu đâu.
Đến đây tôi phải nhấn mạnh điều đang bàn luận hoàn toàn riêng biệt với
việc đảng lãnh đạo hiện nay. Hôm nay hoặc mai sau tôi không phản đối
đảng lãnh đạo miễn là nhân dân Việt nam đồng ý đảng lãnh đạo theo hình
thức đầu phiếu. Nếu đảng vẫn giữ được uy tín trong nhân dân thì tất
nhiên là đảng lãnh đạo, nhược bằng không còn uy tín, tức là trong đảng
hết người tài thì phải nhường cho những người có tài đảm đương trọng
trách. Ở điểm này tôi muốn đảng trả lại nhân dân quyền tự quyết, kiên
quyết loại trừ những người ỷ nại vào quyền thừa hưởng. Thiếu người làm
việc, thừa người tham nhũng bắt nguồn từ nguyên nhân "con ông, cháu cha –
một người làm quan cả họ được nhờ", không khác chế độ phong kiến bao
nhiêu. Giữ điều 4 là chúng ta nuôi dưỡng những nhược điểm đó!
Tôi quan niệm trong hiến pháp chứa đựng nhiều vấn đề cơ bản và quan
trọng vì nó là luật mẹ, nó phải đảm bảo cho người lãnh đạo quản lý được
mọi mặt của xã hội, mặt khác nó lại đảm bảo đời sống an toàn cho mỗi
người dân, không bị áp bức, không bị phân biệt, có những quy ước hợp lý
giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo. Muốn đảm trách được chức năng
đó nhất thiết hiến pháp phải chứa đựng đầy đủ tinh thần Công ước Quyền
con người của L.H.Q mà nhà nước Vn đã ký cam kết, tiếp đến hiến pháp
phải đảm bảo đầy đủ Quyền công dân, một trong những quyền cơ bản của
công dân là quyền bầu chọn và quyền bãi miễn người lãnh đạo. Khi người
dân sử dụng tốt những quyền này thì tình trạng cửa quyền, tham nhũng
không còn đất sống, nội dung điều 4 xem như là thừa.
Khi mà đã thể hiện đầy đủ và rõ ràng Quyền con người và Quyền công dân trong hiến pháp là chúng ta
đang xây dựng xã hội dân sự. Một mô hình xã hội tiến bộ nhất mà nhiều
nước văn minh đang chiếm đa số áp dụng. Xã hội dân sự giải quyết mâu
thuẫn bằng lý lẽ do có hiến pháp bảo đảm quyền bình đẳng, tôn trọng ý
tưởng do được tự do ngôn luận sẽ giảm thiểu giải quyết mâu thuẫn bằng
bạo lực.
Kể từ khi quốc hội kêu goị nhân dân góp ý tôi luôn trăn trở, suy tư. Nếu
sửa từng điều tôi cảm thấy chắp vá, nhiều chữ mà ý vẫn thiếu. Đến khi
72 nhân sỹ soạn thảo một bản hiến pháp mới tôi thấy hợp với suy nghĩ của
tôi và tôi đã ký tên ủng hộ, tôi đứng ở số thứ tự 308 trong danh sách.
Cuối cùng tôi đề nghị quốc hội kéo dài thời gian lấy ý kiến đóng góp ít
nhất là 9 tháng. Tôi hy vọng hiến pháp sau lần sửa này sẽ thay đổi được
hiện tình đất nước. Số người dân khiếu kiện sẽ giảm, án oan sai giảm,
án tồn không còn. Điều kiện để thay đổi không thể còn cách nào khác là
phải tam quyền phân lập. Hành pháp, tư pháp, lập pháp là 3 cơ quan độc
lập. Quốc hội phải là cơ quan quyền lực cao nhất đúng nghĩa, người dân
được bầu đại biểu của mình theo đúng ý nguyện, không bị ai can thiệp,
các đảng phái chính trị chỉ là một bộ phận trong nhân dân. Người dân
được hưởng đầy đủ Quyền con người và Quyền công dân , được hiến pháp
thừa nhận và Quốc hội giám sát chặt chẽ.
25/03/2013
Cựu Chiến binh
Hoàng Đức Doanh
Điện thoại 0987 527 178
Tác giả gửi đến VANGANH.INFO